Bối cảnh Chiến_dịch_Phan_Rang_-_Xuân_Lộc

Xuân Lộc là thủ phủ tỉnh Long Khánh (nay là thị xã thuộc tỉnh Đồng Nai). Thị xã này có quốc lộ số 1 và đường sắt xuyên Việt đi qua, có ngã ba Dầu Giây là điểm cuối của đường 20 từ Đà Lạt về, có đường 56 nối với Vũng Tàu; cách Sài Gòn 60 km về phía Đông - Đông Bắc, cách Biên Hòa 25 km về phía Đông. Địa hình khu vực này không quá phức tạp, gồm nhiều đồi thấp xen giữa các cánh đồng, bãi sắn, vườn cây. Phía Nam có điểm cao Tân Phong (độ cao tuyệt đối 300 m), phía Tây có điểm cao Núi Thị rất thuận lợi cho quan sát chiến trường, tổ chức chỉ huy phòng thủ. Với mục tiêu biến Xuân Lộc thành "cánh cửa thép" che chở cho Sài Gòn từ hướng Đông, được sự ủng hộ của tướng Fredrick C. Weayend, QLVNCH đã nâng cấp cấu trúc Xuân Lộc thành cụm cứ điểm mạnh với hai trung tâm chính là tiểu khu quân sự Long Khánh và căn cứ sư đoàn 18 bộ binh, hai tiền đồn quan trọng là Núi Thị và Tân Phong với nhiều boong ke, lô cốt, hầm ngầm.[6][7]

Phan Rang là thị xã thủ phủ tỉnh Ninh Thuận, cách Sài Gòn 361 km về phía Đông Bắc, cũng có đường quốc lộ số 1 và đường sắt xuyên Việt đi qua. Địa hình khu vực tương đối phức tạp gồm các dải đồi cát và chân ruộng nhỏ hẹp ven biển, phía Bắc có khu căn cứ Bác Ái do Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam kiểm soát, phía Tây có đèo Ngoạn Mục trên đường 27 nối với Đơn Dương và Đà Lạt - Lâm Đồng qua đường 20. Tại đây có các căn cứ quan trọng như chi khu quân sự Du Long án ngữ phía Bắc thị xã, sân bay Thành Sơn (căn cứ của Sư đoàn 6 Không quân VNCH), cảng dân sự Tân Thành, quân cảng Ninh Chữ và tiểu khu quân sự Ninh Thuận. Trong kế hoạch phòng thủ "Nỗ lực tối đa" của QLVNCH đầu năm 1975, Phan Rang trở thành lá chắn phía Đông để ngăn chặn cánh quân duyên hải của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, hỗ trợ phòng ngự cho cụm cứ điểm Xuân Lộc và che chở từ xa cho Sài Gòn.[8]

Thế và lực của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam

Chỉ trong một thời gian ngắn non 1 tháng, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã tiêu diệt và làm tan rã hai quân đoàn và hai quân khu, trên 35% bộ binh, 40% lực lượng binh chủng, thu và phá hủy 43% cơ sở vật chất kĩ thuật của đối phương, giải phóng 12 tỉnh từ Quảng Trị đến Khánh Hòa và toàn bộ Tây Nguyên. Đến ngày 8 tháng 4 năm 1975, Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam đã kiểm soát quá nửa diện tích lãnh thổ tại miền Nam Việt Nam với 16 tỉnh thuộc Quân khu I (toàn bộ), Quân khu II (10/12 tỉnh) và tỉnh Phước Long thuộc Quân khu III. Ngoài ra còn một số không nhỏ các "lõm giải phóng" có quy mô cấp quận, cấp tổng nằm rải rác ở vùng ven đang tranh chấp hoặc ở sâu trong vùng QLVNCH đang kiểm soát.

Ngày 1 tháng 4 năm 1975, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng điện cho Bộ chỉ huy mặt trận Sài Gòn: "Vấn đề quyết định là phải kịp thời nắm lấy thời cơ, quán triệt đầu đủ tư tưởng chỉ đạo: Thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng".

Lực lượng chiến đấu của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam có mặt tại miền Nam Việt Nam đã lên đến 3 quân đoàn, đều đã có mặt hoặc đang trên đường tiến quân đến tuyến phòng thủ Phan Rang - Xuân Lộc.

  • Quân đoàn 4 đã có mặt ở Đông Nam Bộ trong Chiến dịch đường 14-Phước Long đang lần lượt đánh chiếm các tiền đồn của QLVNCH tại Tây Ninh và Bình Long và Bắc Long Khánh, hình thành thế bao vây cụm phòng thủ Xuân Lộc từ các hướng Đông Bắc, Bắc và Tây Bắc.
  • Quân đoàn 2 chỉ để lại sư đoàn 324 làm nhiệm vụ bảo vệ Trị Thiên Huế và Đà Nẵng; đã sử dụng 2.588 xe ô tô, xe tăng, xe thiết giáp, xe kéo pháo và các loại phương tiện cơ giới có trong tay, chia thành 5 khối hành quân dọc đường số 1, nhanh chóng tiếp cận phòng tuyến Phan Rang.
  • Quân đoàn 3 (thành lập ngày 26 tháng 3 năm 1975) sau khi đã chiếm trọn tỉnh cuối cùng tại Tây Nguyên (Tuyên Đức) và hai tỉnh ven biển (Phú Yên và Khánh Hoà) đã nhanh chóng thu quân, điều động lực lượng về hướng Tây và Tây Bắc Sài Gòn tại Dầu Tiếng và Bến Súc thay cho Quân đoàn 4 di chuyển về mặt trận Xuân Lộc. Phía sau lưng các cánh quân này, Quân đoàn 1 tại Ninh Bình đã nhận được lệnh lên đường vào chiến trường ngày 31 tháng 3 năm 1975, chỉ để lại sư đoàn 308 bảo vệ miền Bắc.[9] 0 giờ 30 phút ngày 7 tháng 4, đại tướng Võ Nguyên Giáp, Tổng tư lệnh Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam gửi bức điện số 157/ĐK:TK cho các cánh quân trong đó có đoạn viết: "Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa".[10]

Tình hình của Quân lực Việt Nam Cộng hòa

Tổng thống Gerald Ford, đại sú Graham Martin, tướng Weyland và Henry Kissinger họp bàn về tình hình miền Nam Việt Nam. Nhà Trắng ngày 25 tháng 3 năm 1975

Tình hình nội bộ của chế độ Việt Nam Cộng hòa đầu năm 1975 cũng có những diễn biến phức tạp không thua kém tình hình trên các mặt trận. Đã có ít nhất hai âm mưu ám sát Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu bị phát giác. Ngày 23 tháng 1, một sĩ quan Quân lực Việt Nam Cộng hòa đã ám sát hụt tổng thống của mình bằng súng ngắn. Anh này lập tức bị đưa ra tòa án binh xét xử. Ngày 4 tháng 4, phe đối lập định đặt bom tại Dinh Độc Lập nhưng bị lộ. Ngày 8 tháng 4, phi công Nguyễn Thành Trung dùng máy bay F-5E ném bom Dinh Độc Lập. Tất cả những động thái nói trên làm cho Nguyễn Văn Thiệu càng tăng thêm nghi ngờ một số tướng lĩnh có âm mưu đảo chính chống lại mình.[11].

Ngày 2 tháng 4 năm 1975, Thượng nghị viện VNCH ra một kiến nghị đòi thay đổi chính phủ. Ngay ngày 2 tháng 4, thủ tướng Trần Thiện Khiêm xin từ chức và được Nguyễn Văn Thiệu lập tức chấp thuận. Cũng trong ngày hôm đó, Thượng nghị viện thông qua đạo luật giao cho Nguyễn Bá Cẩn, chủ tịch quốc hội kiêm nhiệm chức thủ tướng.[12] Trong bài diễn văn đọc trên truyền hình Sài Gòn tối ngày 4 tháng 4, Nguyễn Văn Thiệu nhân danh Tổng thống Việt Nam Cộng hòa yêu cầu bắt giam 3 sĩ quan cao cấp quân đội gồm: tướng Phạm Văn Phú vì đã để mất toàn bộ Tây Nguyên; tướng Phạm Quốc Thuần vì đã bất tuân thượng lệnh, không chịu tổ chức phòng thủ Nha Trang; tướng Dư Quốc Đống về tội để mất Phước Long. Nguyễn Văn Thiệu còn muốn bắt giam cả tướng Ngô Quang Trưởng nhưng vì ông này đang nằm điều trị tại bệnh viện nên không bị động đến.[13]

Giải quyết tạm ổn vấn đề nội trị, ngày 3 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu đã trình bày trước phó đại sứ Hoa Kỳ Lehman và tướng Fredrick C. Weyand bản kế hoạch "Nỗ lực tối đa" nhằm giữ vững những phần đất còn lại. Ông ta cho rằng cần phải lấy Xuân Lộc làm trung tâm phòng ngự, hai bên sườn phải giữ được Tây Ninh và Phan Rang. Cuộc họp trở nên căng thẳng khi Nguyễn Văn Thiệu đưa ra bức thư của cựu tổng thống Richard Nixon hứa sẽ can thiệp bằng quân sự nếu VNDCCH tấn công và hỏi chính quyền Hoa Kỳ còn nhớ đến lời hứa này không. Chưa hết, đáp lại lời tuyên bố cùng ngày của tổng thống Gerald Ford rằng "quyết định đơn phương về việc rút quân của tổng thống Thiệu đã tạo ra hậu quả là một tấn thảm kịch không thể tưởng tượng được", ông Thiệu còn tuyên bố rằng chính quyền Hoa Kỳ đã đem con bỏ chợ và rằng bản thân ông ta đã bị Henry Kissinger viết chung vào một hóa đơn và bán đứng cho VNDCCH cùng với Hiệp định Paris rồi.[11][14]

Theo giới phân tích quân sự, kế hoạch trên đây rất khó thực hiện vì từ quân số hơn một triệu, QLVNCH đã bị tiêu diệt, bị bắt và tan rã một nửa. Theo đại tá Lê Trung Hiền, người phát ngôn của Bộ Tổng tham mưu QLVNCH thì đã có đến sáu sư đoàn rưỡi mất khả năng tác chiến. Giới quân sự cũng nghi ngờ khả năng chiến đấu thực tế của sư đoàn 5 và sư đoàn 25 vì hai viên tướng tư lệnh của họ là Lê Văn Tư và Trần Quốc Lịch đang ngồi tù do mắc tội tham nhũng, bị cả cơ quan điều tra VNCH và Hoa Kỳ cáo buộc là đã bán gạo và vật liệu cho đối phương. Ngay cả tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, trong thời gian làm tư lệnh Quân đoàn IV (1973-1974) cũng bị nghi ngờ vì đã để "biến mất" 8.000 máy bộ đàm cầm tay và 25.000 khẩu súng tiểu liên M-16.[15] Sư đoàn 2 phòng thủ Phan Rang thì chỉ còn 2 trung đoàn (trong đó có trung đoàn 4 vừa tái lập) và vẫn đang trong giai đoạn chỉnh đốn lại biên chế. Ba sư đoàn khác không phải là các đội quân thiện chiến đang nằm ở đồng bằng sông Cửu Long và khó có thể di chuyển về bảo vệ Sài Gòn do bị đối phương liên tục tập kích. Tất cả chỉ còn trông vào sư đoàn 18 do chuẩn tướng Lê Minh Đảo (người đã từng cùng chuẩn tướng Lê Văn Hưng phòng thủ An Lộc) chỉ huy. Đây chính là đơn vị được chọn để tử thủ tại Xuân Lộc cùng với các lực lượng dù, thủy quân lục chiến, biệt động quân, tăng thiết giáp và không quân còn lại.[16][17].